Tổng hợp 10 trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
Đối với nhiều vụ án, hành vi dù được coi là tội phạm nhưng để khởi tố vụ án thì chỉ khi có đơn đề nghị của người bị hại. Dưới đây là 10 trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại mà Luật Nhân Dân chia sẻ, mời bạn đọc cùng tìm hiểu.
Nội Dung Bài Viết
Cơ sở pháp lý
Thế nào là người bị hại? Thế nào là khởi tố vụ án hình sự?
Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự trong đó các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định kiểm tra thông tin, tài liệu thu được, xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm.
Các trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
– Trường hợp thứ nhất: (Tại khoản 1 Điều 134) đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
– Trường hợp thứ hai: (Tại Khoản 1 Điều 135) đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
– Trường hợp thứ ba: (tại Khoản 1 Điều 136) đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
– Trường hợp thứ tư: (tại Khoản 1 Điều 138) đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
– Trường hợp thứ năm: (Tại Khoản 1 Điều 139) đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
– Trường hợp thứ sáu: (Tại Khoản 1 Điều 141) đối với tội hiếp dâm
– Trường hợp thứ bảy: (Tại khoản 1 Điều 143) đối với tội cưỡng dâm
– Trường hợp thứ tám: (Tại khoản 1 Điều 155) đối với tội làm nhục người khác
– Trường hợp thứ chín: (Tại Khoản 1 Điều 156) đối với tội vu khống;
– Trường hợp thứ mười: (Tại Khoản 1 Điều 226) Đối với tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp
Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, hậu quả pháp lý xảy ra khi người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố, như sau:
– Nếu người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ;
– Nếu có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
– Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Trên đây là những chia sẻ của Luật Nhân dân Việt Nam về 10 trường hợp chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Nếu còn những vướng mắc về các vấn đề liên quan tới luật hình sự hãy liên hệ với chúng tôi để được giải đáp nhanh chóng, cập nhật những quy định mới theo quy định pháp luật hiện hành.
Thông tin liên hệ:
Địa chỉ trụ sở chính: CÔNG TY LUẬT NHÂN DÂN VIỆT NAM
Số 16, ngõ 84 Chùa Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, TP Hà Nội
Hotline tư vấn pháp luật miễn phí:
Mobile: 0966.498.666
Tel: 02462.587.666
Email: luatnhandan@gmail.com
Tác giả: Luật sư Nguyễn Anh Văn
Leave a Reply
Want to join the discussion?Feel free to contribute!